Hội Quán Quảng Đông số 22 Hàng Buồm, Hà Nội
Ngày đăng: 19/01/2022
Phố Hàng Buồm là một trong những nơi sầm uất nhất giữ được không khí của Hà Nội một thời xa xưa. Nó sầm uất một thời vì là nơi tập trung dân Hoa Kiều, một cộng đồng những người dân từ Trung Hoa sang sinh sống qua các thời kì lịch sử khác nhau. Đến nay cộng đồng người Hoa không còn nữa nhưng nét sầm uất vẫn được giữ lại với những hàng quán ăn uống nối sang cả các dãy phố từ Hàng Giày cho tới Tạ Hiên, Mã Mây, … Đây cũng là một đường phố mà kiến trúc ít thay đổi nhất. Nhưng kiến trúc tiêu biểu nhất còn lại của văn hóa Trung Hoa ở khu phố này là ngôi nhà số 22 Hàng Buồm, vốn là hội quán của người Hoa xưa mang tên HỘI QUÁN QUẢNG ĐÔNG.
Hình ảnh mặt tiền của Hội Quán Quảng Đông
TÊN DI TÍCH
Tên chữ: “Quảng Đông hội quán”, nghĩa là: Hội quán Quảng Đông. Ngoài ra, di tích còn có các tên gọi: “Việt Đông hội quán”, “Việt Thương hội quán”. “Dân Quốc hội quán”.
HỘI QUÁN QUẢNG ĐÔNG Ở ĐÂU?
Di tích Hội quán Quảng Đông hiện nay thuộc số nhà 22 Hàng Buồm, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Xưa, địa danh nơi di tích tọa lạc thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc (thời Lê) đến thời Nguyễn đổi là tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức.
NGUỒN GỐC HỘI QUÁN NÓI CHUNG VÀ HỘI QUÁN QUẢNG ĐÔNG NÓI RIÊNG
Để tìm hiểu giá trị của di tích này, chúng tôi muốn đề cập tới những người trùng tu, xây dựng hội quán. Đó là Việt Đông hội quán – một tổ chức của cộng đồng người Hoa sinh sống và làm việc trên đất kinh kỳ Hà Nội, trước kia có trụ sở tại phố Hàng Buồm. Để hiểu thêm về Việt Đông hội quán, trước hết chúng ta cần tìm hiểu đôi nét về hội quán.
Hội quán với nét nghĩa ban đầu chỉ nơi hội họp, sau được mở rộng chỉ tổ chức của cộng đồng người Hoa sinh sống và làm ăn ngoài lãnh hải Trung Quốc. Việc thành lập tổ chức này, ban đầu chỉ là của những người Hoa cùng quê. Mục đích của việc thành lập chỉ là giúp nhau làm ăn, nương tựa nhau trong lúc ốm đau, chức năng ban đầu của hội quán là giúp đỡ và liên kết, do đó họ có quan niệm hội quán là nơi gắn kết tình cảm của những người sống xa quê. Về sau, nhiều hội quán làm ăn phát đạt đã trở thành những tổ chức có thực lực về kinh tế, có trụ sở riêng. Hội quán của người Hoa được thành lập ở nhiều nước trên thế giới. Các nước trong khu vực Đông Nam Á như: Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan, … đều có hội quán, ngay cả các nước châu Âu ngày nay như ở Quận 13 của Paris thủ đô nước cộng hòa Pháp cũng có rất nhiều hội quán của người Hoa.
Người Hoa di cư đến Việt Nam sinh sống và làm ăn đã từ lâu. Tại hai thành phố lớn Hà Nội và Hồ Chí Minh xưa kia cũng có nhiều hội quán: hội quán của người Phúc Kiến, hội quán của người Quảng Đông, của người Triều Châu. Tại Hà Nội, có hội quán của người Phúc Kiến trụ sở đặt tại 40 phố Lãn Ông được thành lập năm Gia Long thứ 16 (1817) và hội quán Quảng Đông tức (Việt Đông) có trụ sở đặt tại 22 phố Hàng Buồm.
ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC THỜ TẠI HỘI QUÁN QUẢNG ĐÔNG HÀNG BUỒM
Người Hoa sinh sống ở ngoài lãnh hải Trung Quốc dù là người Phúc Kiến, Quảng Đông, họ đều có chung một tín ngưỡng, đó là tín ngưỡng phụng thờ thánh nhân. Căn cứ vào tấm bia “Phúc Kiến hội quán hưng sáng lục” thì người Phúc Kiến tôn thờ bà Thiên Hậu. Bà Thiên Hậu được người dân miền Nam Trung Hoa tôn sùng là một vị thần vì bà có công cưu mang, che chở cho người qua sông vượt biển đến những miền đất mới sinh cơ lập nghiệp an toàn. Thiên Hậu là một nữ thần có vị trí quan trọng trong thần điện của người Trung Quốc. Hiểu theo nghĩa triết tự, Thiên Hậu là “Hoàng hậu của trời”. Bà còn được gọi là “Thiên Thượng Thánh Mẫu” (mẹ thánh của trời), hoặc thân mật hơn là “Mã Tổ bà” (bà tổ). Việc thờ cúng nữ thần này có nguồn gốc từ Phúc Kiến và từ đó lan khắp Trung Quốc.
Toàn cảnh ban thờ cung Thiên Hậu
Nữ thần Thiên Hậu là vị thần bảo hộ cho các thủy thủ, các đoàn tàu buôn của người Trung Quốc buôn bán trong nước và trên thế giới. Trước khi nhổ neo lên đường, cả thủy thủ và khách đều đem lễ vật cúng bà trên bờ, hoặc đến chùa thắp hương cầu khấn. Những thương nhân xuất hay nhập khẩu, những nhà thầu vận tải đường biển, những người di cư, những hành khách đều cúng lễ bà.
Sách “Phong thần diễn nghĩa” cho biết: “Thiên Hậu là một cô gái sinh ra ở đảo My Châu gần Hưng Hóa, người này thì nói là sống ở thế kỉ thứ VIII, người khác lại nói ở thế kỉ thứ X. Bà đặc biệt sùng kính Quan Âm và không chịu lấy chồng. Bốn người anh bà đều buôn bán trên biển và mỗi người có một con tàu do họ lái lấy. Một buổi chiều những người anh đi xa, bà bị bất tỉnh. Sau những cố gắng lâu ngày, người ta làm cho bà sống lại, nhưng bà than phiền mình được gọi về quá sớm. Lúc đó người ta chẳng hiểu bà muốn nói gì. Nhưng vài hôm sau, ba người anh trở về tay không: một trận bão đã đánh vào những con tàu của họ. Những tưởng mình đã chết, nhưng có một cô gái hiện ra đưa họ tới nơi ẩn nấp, chỉ có người anh cả không được cứu thoát. Lúc đó người ta mới hiểu được những lời của bà: chính bà đã đi cứu những người anh gặp nạn. Ít lâu sau, bà mất.”
Theo một tấm bia dựng năm 1228 ở đền thờ bà tại Hàng Châu (Trung Quốc), thì: “… một buổi sáng siêu nhiên xuất hiện trong đêm, trên bờ My Châu và tất cả những người dân ở đó đều mơ thấy một người con gái nói với họ: “Ta là nữ thần My Châu, phải để ta ở đây!” Sau phép lạ này, họ dựng cho bà một ngôi trên biển…” Rồi, sau đó bà liên tiếp phù trợ, cứu vớt những người gặp nạn trên biển: nạn bão to, đắm tàu, cướp biển… và đặc biệt hữu hiệu trong những trận hạn hán năm 1187, 1190 ở Trung Quốc. Do có công tích đối với dân, với nước, bà liên tiếp được các triều vua phong tặng các tước hiệu.
Còn người dân Việt Đông tôn thờ Quan Thánh Đế Quân. Quan Thánh Đế Quân còn gọi là Quan Đế hay Quan Công là một người họ Quan tên Vũ, tự Vân Trường, một võ tướng của Lưu Bị nhà Thục Hán thời Tam Quốc. Quan Vân Trường với mục đích ca ngợi một nhân cách trung nghĩa, một con người chính trực, công minh, giàu tình thương yêu và chung thủy, sống trọn đào tình anh em kết nghĩa.
Toàn cảnh ban thờ Quan Công - Châu Xương - Quan Bình
Từ những cứ liệu trên cho thấy sự tồn tại của Hội quán Quảng Đông có một giá trị nhất định. Sự tồn tại của hội quán đã minh chứng cho một chính sách của các vương triều phong kiến Việt Nam là tiếp nhận, dung nạp cho phép những người nước ngoài đến sinh sống và làm ăn được tham gia vào các hoạt động xã hội tại Việt Nam.
Đặc biệt, tại di tích Hội quán Quảng Đông hiện còn lưu giữ một tấm biển đá trên tường khắc dòng chữ: “ Cụ Tôn Trung Sơn, người đi trước trong cuộc cách mạng dân chủ vĩ đại của Trung Quốc, năm 1904 đã từng ở đây.”
NIÊN ĐẠI XÂY DỰNG VÀ NHỮNG LẦN TRÙNG TU SỬA CHỮA HỘI QUÁN QUẢNG ĐÔNG
Căn cứ vào tấm bia “Việt Đông hội quán bi ký” cho biết Việt Đông hội quán được thành lập năm Gia Long 2 (1803). Trụ sở của hội quán cũng được xây vào năm nay. Căn cứ vào tấm bia “Đỉnh kiến hội quán thêm đề lục” bài văn khắc trên bia không chỉ ghi lại việc xây dựng hội quán mà còn ghi họ tên quê quán những thương nhân và các cửa hiệu quyên góp tiền của xây dựng hội. Từ những thông tin này, chúng ta được biết Việt Đông hội quán là tổ chức của cộng đồng người Hoa quê gốc ở hai huyện Thuận Đức và Nam Hải tỉnh Quảng Đông. Ở thời điểm đầu năm Gia Long (1802 – 1819) người Hoa ở Quảng Đông có tới 65 cửa hiệu buôn bán ở kinh thanh và họ luôn chăm lo tới hội quán. Căn cứ vào số bia dựng tại hội quán thì trụ sở của họ được tu sửa vào hai năm Minh Mệnh 1 (1820) và Thiệu Trị 4 (1844).
Như vậy, qua các cứ liệu nói trên, chúng ta có thể nhận định di tích Hội quán Quảng Đông được ra đời năm Gia Long 2 (1803). Diện mạo của hội quán hiện nay mang dấu ấn của lần trùng tu năm thứ 9 niên hiệu Trung Hoa Dân Quốc (1920) và trên câu đầu bộ vì tòa hậu cung còn ghi rõ ngày tốt, tháng trọng thu, niên hiệu Thành Thái.
KIẾN TRÚC CỦA HỘI QUÁN QUẢNG ĐÔNG ĐẶC SẮC VÀ MANG ĐẶC TRƯNG CỦA KIẾN TRÚC QUẢNG ĐÔNG
Các bộ phận cấu thành di tích chia thành 3 trục: Trục chính ở giữa và hai trục phụ hai bên. Ba trục kết hợp với nhau tạo thành mặt bằng hình chữ “nhật” hoặc chữ “quốc”. Tổng diện tích toàn bộ khuôn viên của hội quán là 1670 m2 bao gồm: Lối dạo hai bên hàng lang tả - hữu, sân thiên tỉnh, bên sân phía trước là một cây sấu đại thụ tạo cảnh quan và bóng mát, tiếp theo là nhà tiền đường, phương đình, trung đường và hậu cung chiếm lĩnh vị trí trọng tâm.
Mở đầu khu di tích hội quán Quảng Đông là tiền đường 3 gian xây gạch với hai bộ vì được kết cấu kiểu chồng rường giả thủ bào trơn đóng bén. Mái lợp ngói ống theo kiểu âm dương tiểu đại hay kiểu ống ngõa. Cuối mái có đường diềm tráng men thanh lưu ly. Trên nóc mái được trang trí các họa tiết bằng gốm sứ bài trí theo quan niệm của người Hoa chia làm ba tầng: Tầng trên, tầng giữa, và tầng đáy. Điều đó tạo ra sự tôn nghiêm, sự hài hòa giữa con người và cảnh vật thiên nhiên. Toàn bộ phần tường và nền nhà tiền đường được ốp bằng đá phiến màu xám có kích thước 30 x 80cm. Chính giữa mở một cửa lớn hình chữ nhật bằng gỗ lim, trên cánh cửa đề 4 chữ: “Dân Quốc hội quán” (Hội quán Dân quốc), xung quanh đố cửa cũng được ghép bằng chất liệu đá xám. Phần trên cửa là bức đại tự bằng đá đề dòng chữ: “ Việt Đông hội quán” (Hội quán Việt Đông).
Tiếp theo là nhà phương đình có diện tích 333,9m2, trước đây có chức năng là nơi tập trung sinh hoạt cộng đồng người Hoa bản phố. Hiện nay được sử dụng làm hội trường mẫu giáo bán công Tuổi thơ. Phương đình có kết cấu kiểu nhà vuông bốn mái, mái nhà được làm cao, đứng phía dưới khiến ta có cảm giác như đứng trong thánh thất của nhà thờ công giáo. Bờ nóc, bờ dải làm nhô cao trang trí hoa chanh, chính giữa bờ nóc là một bình hồ lô (nậm rượu), diềm mái trang trí lá đề cách điệu. Phía dưới cổ trần hai bên bố trí mỗi bên 12 ô cửa trong kính ngoài chớp tạo ánh sáng cho bên trong. Phía dưới các ô cửa kính về hai bên tả, hữu được trang trí 14 ô chữ nhật đắp nổi các bức phù điêu theo chủ đề “tứ linh”, “tứ quý”.
Trung đường có diện tích 100m2 với hai hàng cột kim loại (gồm 6 cột), qua bậc tam cấp dẫn vào hệ thống cửa vòm trang trí các hình linh vật như: phượng vũ, dơi. Hiện nay được sử dụng làm sân khấu cho các cháu Trường mẫu giáo bán công Tuổi thơ. Hai bên tả, hữu nhà trung đường được mở cửa thông ra hành lang và phía sau hậu cung. Dọc hai bên trục phụ bố trí 11 phòng sử dụng làm lớp học.
Hình ảnh Trung đường
Trang trí các hình linh vật trên vòm nhà trung đường
Trang trí trên vòm trung đường
Trang trí trên mái trung đường
Nối trung đường và hậu cung là hai dãy hành lang tả, hữu. Phần này toàn bộ diềm mái được chạm trổ kín bề mặt với các hình văn triện, chữ thọ, hoa cúc mãn khai…
Kết cấu và trang trí tại hành lang tả - hữu
Kết cấu và trang trí tại cửa hàng lang tả - hữu
Kết cấu và trang trí tại cửa hành lang tả - hữu
Kết cấu và trang trí tại cửa hành lang tả - hữu
Hậu cung (cung Quan Công) nằm phía sau trung đường cách một khoảng sân. Phía trước cung Quan Công mở hệ thống cửa bức bàn gồm 3 bộ cửa, 1 cửa chính (8 cánh) và 2 cửa phụ (mỗi cửa 4 cánh) được chạm lộng các đề tài “tứ quý” dày đặc trên bề mặt gỗ. Hàng hiên phía trước, có kết cấu kiểu vòm cuốn (vì vỏ cua) gồm 2 bộ vì trang trí chữ “thọ”, đèn lồng, văn triện và hoa lá đan xen.
Cung Quan Công
Hệ thống cửa bức bàn của cung Quan Công
Hệ thống cửa bức bàn ở cung Quan Công
Nhà xây gạch 1 gian, 2 dĩ kiểu đầu hồi bít đốc gồm 2 bộ vì kèo kết cấu kiểu “giá chiêng chồng rường con nhị”. Kiểu kết cấu vì này gồm những con rường dài, ngắn khác nhau kê lên nhau qua những đấu vuông thót đáy, dày, cao. Các rường ngắn dần về phía thượng lương, để con rường cuối cùng đội thượng lương qua một đấu nhỏ được trang trí hình chữ “triện”. Để tránh sự nặng nề cho bộ vì nóc và cũng để thỏa mãn nhu cầu mở rộng lòng công trình, các nghệ nhân đã thay con rường ở sát câu đầu bằng một đôi rường cụt. Kết cấu này vừa mang tính chất chồng rường, vừa mang tính chất giá chiêng. Song chiếc cột trốn của giá chiêng được thay thế bằng con rường cụt để đội đầu rường lên. Toàn bộ hệ thống trên được đỡ bởi một quá giang to, khỏe chạm khắc dòng chữ: “Trung Hoa dân quốc cửu niên” được ăn mộng vào đầu hai cột cái. Kiểu liên kết vì này mang hình thức cốn chồng rường, chúng gắn với nhau bởi các đấu kê và càng lên cao, càng thu ngắn theo chiều dốc của mái, tạo thành những đường gờ để gác các đường hoành của nhà. Trọng lượng của bộ mái dồn lên 4 cây cột lớn, chu vi mỗi cột tới 120cm, chiều cáo 7,416m. Đây là lối kết cấu vẫn thường gặp trong các kiến trúc tôn giáo truyền thống Việt Nam. Cái khác ở đây là lối rải hoành theo kiểu “thượng tứ hạ tứ” và sự nâng chiều cao của kiến trúc một cách rõ rệt thể hiện ở 4 bộ vì nách có kết cấu kiểu “chồng rường giả thủ”.
Các ban thờ được bố trí chạy ngang theo lòng nhà. Chính giữa là khám thờ Quan Công là một pho tượng lớn với khuôn mặt đỏ, có râu cắm ngồi trong ngai, không đội mũ bình thiên, áo thụng, mang giá trị vừa phải về tạo hình. Phía trước là 2 pho tượng thị giả đứng hầu một văn, một võ theo truyền thuyết thì đây là Châu Xương và Quan Bình. Tượng võ có mặt khá gồ ghề như nhấn mạnh sự cương quyết bảo vệ chân lý. Cả hai pho tượng tập trung vào ý niệm nhiều hơn nét chân dung và yếu tố nghệ thuật. Ngoài ra, trong cung còn phối thờ 4 bài vị và 6 long ngai – bài vị, được bài trí trong 2 khám gỗ chạm trổ cầu kì các đề tài “tứ linh”, “tứ quý”.
Khám thờ Quan Công với khuôn mặt đỏ
Trang trí trên nóc mái cung Quan Công
Cũng giống như ở cung Quan Công, cung Thiên Hậu mở hệ thống của bức bàn ở phía trước gồm 3 bộ cửa (1 cửa chính và 2 cửa phụ) được chạm lộng các đề tài “tứ quý” dày đặc trên bề mặt gỗ. Phía trên cửa bức bàn là một hệ thống chấn song gỗ, hai bên cửa gió trang trí đề tài “lão trúc”. Mặt bằng kiến trúc 1 gian, kết cấu kiến trúc theo kiểu trốn cột (không vì kèo), mỗi mặt mái có 9 khoảng hoành được gác trực tiếp lên tường hồi. Phần mái được lợp bằng ngói ống.
Nội thất trang nghiêm với một khám thờ lớn trang trí đề tài “tứ linh”, “tứ quý”, bên trong bài trí tượng Mẫu Thiên Hậu ngồi trên ngai, theo hầu bà cố hai vị Thiên lý nhãn và Thuận phong nhĩ.
Theo hầu Thiên Hậu có Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ
NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRONG HỘI QUÁN QUẢNG ĐÔNG
Điêu khắc gốm: Là điểm nổi bật của công trình này, với quần thể tiếu tượng gốm trang trí trên đỉnh mái hội quán được chia làm ba nhóm: nhóm hình thú, nhóm hình nhân và nhóm vật dụng. Các khối họa tiết gốm được bài trí theo quan niệm của người Hoa, chia làm ba tầng: Tầng trên, tầng giữa và tầng đáy. Điều đó tạo ra sự hài hòa giữa con người và cảnh vật thiên nhiên.
Nhóm biểu tượng hình thú: gồm có long – lân – quy – phượng (tứ linh) được trang trí ở tầng trên và tầng đáy của nóc mái. Trong nhóm tứ linh thì “long” được thể hiện ở những mái chính của hội quán. Tầng đáy là hình ảnh “lân, phượng” và cảnh muôn thú như: chim, gà, thỏ, cây cối hoa cỏ, na, đào, lựu, …
Nhóm biểu tượng hình nhân: miêu tả cuộc sống con người, thần tiên các nhân vật trong các điển tích cổ, truyền thuyết của Trung Quốc. Đây là nhóm biểu tượng được trang trí nhiều nhất, dày đặc với sự kết hợp nhiều gam màu, màu sắc. Hình ảnh “Đường Tăng sư đồ” (bốn thầy trò Đường Tăng), “Ba tiêu động”, “Thiết phiến cung” (quạt sắt) các tích này nằm trong cốt truyện “Tây du kí”, thể hiện sự đối nghịch giữa chính – tà, thiện – ác. Điều này chịu sự chi phối, ảnh hưởng của phật giáo và đạo giáo. Cảnh tám ông tiên du ngoạn trong điển tích “Bát tiên quá hải”, hình ảnh “Nam sơn tiến sĩ”, “Phúc lộc thọ” thể hiện sự hướng thiện, sự đỗ đạt của các danh sĩ. Tất cả được miêu tả một cách sinh động và chân thực, đồng thời cũng tạo nên nét nghệ thuật trang trí độc đáo, đặc sắc làm tô đẹp thêm cho cả khối kiến trúc của hội quán.
Nhóm vật dung: là các loại vật dụng như bình hoa, binh khí (đao, kiếm, gậy), sáo, quạt… đây là những đồ vật đi kèm với các nhân vật trong truyền thuyết, điển tích cổ, cảnh vật, và cuộc sống con người Trung Hoa cổ đại.
Điêu khắc gỗ: được thể hiện trên hệ thống vì “vỏ cua” hai dãy hành lang tả, hữu và toàn bộ diềm mái được chạm trổ kín bề mặt với các hình văn triện, chữ thọ, hoa cúc mãn khai... trên đầu bẩy, xà nách, khám thờ, long khai – bài vị. Đặc biệt là hai bộ cửa bức bàn trước cung Quan Công và cung Thiên Hậu được chạm nổi, chạm thủng rất kỹ theo lối bổ ô với các đề tài cầu phúc mang nét phối hợp Hoa – Việt.
Điêu khắc đá: Thể hiện ở phần bó vỉa mặt tiền, chân cột vuông xung quanh trang trí hoa văn chữ S, ở vị trí trung tâm chạm nổi hình hoa cúc đại đóa.
Điêu khắc gỗ: được thể hiện trên hệ thống vì “vỏ cua” hai dãy hành lang tả, hữu và toàn bộ diềm mái được chạm trổ kín bề mặt với các hình văn triện, chữ thọ, hoa cúc mãn khai... trên đầu bẩy, xà nách, khám thờ, long khai – bài vị. Đặc biệt là hai bộ cửa bức bàn trước cung Quan Công và cung Thiên Hậu được chạm nổi, chạm thủng rất kỹ theo lối bổ ô với các đề tài cầu phúc mang nét phối hợp Hoa – Việt.
Kết cấu và trang trí trên kiến trúc tại hàng hiên nhà tiền đường
Điêu khắc đá: Thể hiện ở phần bó vỉa mặt tiền, chân cột vuông xung quanh trang trí hoa văn chữ S, ở vị trí trung tâm chạm nổi hình hoa cúc đại đóa.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA HỘI QUÁN QUẢNG ĐÔNG
Với những giá trị nổi bật hiện còn của di tích, chúng ta có thể xếp Hội quán Quảng Đông vào loại di tích mang giá trị Lịch sử - Kiến Trúc – Nghệ thuật.
Tổng hợp: Hoàng Anh Đức
Dựa trên tài liệu về di tích Hội Quán Quảng Đông